Đến khi nước Nam đã lấy lại quyền tự-chủ rồi, thì chữ ấy vẫn dùng để viết các công-văn như chỉ -dụ, chế, sắc nhà vua, tờ sức, tờ bẩm của các quan, luật lệ, đơn-từ và cả những giấy-má việc tư nữa, như thư-tín, khế-ước, chúc-thư, văn-tế; chữ ấy vẫn dạy trong các trường học và dùng trong việc thi-cử, còn tiếng ta thì không dùng đến. Chữ nho ở bên nước ta không đọc như người Tàu đọc, lại đọc một cách riêng của ta và đã có lắm chữ thành hẳn tiếng ta rồi. Bởi vậy ta nay cũng phải học và biết ít nhiều để nói tiếng ta và viết văn ta cho thông.
Giải nghĩa. – Khuyến-khích = khuyên-nhủ, thúc-giục, - Công-văn = giấy-má việc quan. – Chỉ-dụ = mệnh lệnh nhà vua ban ra. – Chế, sắc = nhời nhà vua viết ra phong thưởng tước phẩm cho các quan. – Khế-ước = giấy giao-kèo của hai bên về việc mua, bán, cầm, cố v.v. – Chúc-thư = nhời người chết dặn lại.
Bàitập Học tiếng. – Khuyến-khích, - công-văn, - chỉ-dụ, - chế, sắc, - tờ sức, - tờ bẩm, - khế-ước, - chúc-thư, - văn-tế, - nhà văn sĩ, - thông.
Câu hỏi. – Chữ nho mang sang nước ta tự bao giờ? – Chữ ấy ngày xưa thường dùng để làm gì? – Chữ nho ở bên ta đọc ra cách thế nào? – Có nhiều chữ nho đã thành ra tiếng gì? – Tại sao ngày nay ta cần phải học chữ nho?
Ta nên học chữ nho
School@net (Theo Quốc-Văn Giáo-Khoa Thư )
|