Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, mảnh đất này khi là Thủ đô vương quốc, khi bị ngoại xâm chiếm đóng, nhưng rồi lại trở về với nhân dân, lại giữ vai trò trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế của đất nước.
Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ Cố đô rồi lại tân đô Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây. Hà Nội nằm giữa một vùng sông nước với những ngã ba sông, lại có núi Nùng trấn trung tâm Ba Vì, Tam Đảo, Sóc Sơn bao phía bắc, tạo nên thế “rồng cuộn hổ ngồi”. Sông Tô một giải lượn vòng Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh Sông Hồng một khúc uốn quanh Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài. Sông Hồng tức Nhị Hà đã trở thành trục giao thông quan trọng ngày ấy: Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui. Con sông Tô Lịch chảy giữa đô thành đem lại cảnh hữu tình cho đất ngàn năm văn vật. Sông Tô nước chảy quanh co Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya… Nước sông Tô vừa trong vừa mát Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh Dừng chèo muốn tỏ tâm tình Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu. Hà Nội còn đẹp bởi “Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong”. Không phải một hồ mà nhiều hồ. Hồ Gươm như lẵng hoa giữa lòng thành phố. Hồ Bảy Mẫu, Hồ Văn, Giảng Võ ở phía Nam và Tây Nam. Tây Bắc có Hồ Tây, Trúc Bạch nổi tiếng. Mỗi hồ là một danh thắng.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. * * * Hà Nội không chỉ giàu có về di tích danh lam thắng cảnh, về đình, đền, chùa, miếu, về kiến trúc, điêu khắc, về cổ vật… mà còn là một kho tàng vô cùng phong phú về văn hóa - văn nghệ dân gian phi vật thể. Đó là hàng nghìn câu ca dao, ngạn ngữ, làn điệu hát, khúc nhạc, hàng trăm truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, câu đối, truyện cười, hàng trăm trò chơi, thú chơi dân dã cũng như những mỹ tục thuần phong thanh lịch mang sắc thái riêng biệt của Thăng Long - Hà Nội có bề dày nghìn năm lịch sử, tinh hoa của nền văn hiến Việt Nam. Kho tàng ấy rất ít được ghi lại thành văn bản mà chủ yếu được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Trong quá trình lưu truyền ấy nó được bổ sung, chỉnh lý, sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại và cả với tầng lớp giai cấp mà nó phổ biến. Cho nên văn hóa phi vật thể thường có nhiều lối kể, cách diễn đạt cũng như chi tiết nội dung khác nhau. Tính dị bản ở nó là tất nhiên. Nó còn được dùng lẫn ở nhiều địa phương với công thức “bình chung, rượu riêng”. Thí dụ như trong ca dao miêu tả ngợi ca quê hương làng xóm, nhiều nơi ứng dụng lẫn của nhau chẳng biết ai lấy của ai, câu nào ra đời trước nữa. - Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Kẻ Bưởi với anh thì về Làng anh có ruộng tứ bề Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ.. - Hỡi cô mà thắt bao xanh
Có về Kim Lũ với anh thì về Kim Lũ có hai cây đề Cây cao bóng mát gần kề đôi ta… - Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Kẻ Vẽ với anh thì về Kẻ Vẽ có thói có lề Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn. - Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làm cốm với anh thì về… - Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Có về Phú Diễn với anh thì về Phú Diễn có cây bồ đề Có sông tắm mát, có nghề ăn chơi… - Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. - Ai về Đào Xá vui thay
Xóm Bắc có chợ, xóm Tây có chùa Xóm Đông có miếu thờ vua Xóm Nam có bến đò đưa dập dìu… Hoặc niềm tự hào về quê hương luôn đưa mình lên hàng đầu nơi khác: - Thứ nhất hội Gióng, hội Dâu Thứ nhì hội Buởi, hội Vó chẳng đâu vui bằng. - Thứ nhất là hội Cổ Loa
Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm. Ngôi thứ bị đảo lộn cũng như câu ca xứ Sơn Nam xưa, ở Thanh Trì là “Thứ nhất Thanh Trì, thứ nhì Thanh Oai”, nhưng sang đất Thanh Oai lại “Thứ nhất Thanh Oai, thứ hai Thanh Trì”. Lại còn cách đề cao người để mà nói với mình “Nhất vui là hội chùa Thầy, Vui thì vui vậy chẳng tày chùa Mơ”. Hà Nội cũng là quê hương của nhiều lễ hội nổi tiếng thiên hạ:
- Ai ơi mồng chín tháng tư Không đi hội Gióng cũng hư mất đời Tháng giêng giỗ Thánh Sóc Sơn Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về. - Cha đánh mẹ treo cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm.
- Mỗi năm vào dịp xuân sang Em về Triều Khúc xem làng hội xuân… Ca dao còn phản ánh một Thăng Long - Hà Nội có bề dày lịch sử và quá khứ anh hùng. - Lạy trời cho cả gió lên Cho cờ Bình Định bay trên kinh thành. - Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am. - Long thành bao quản nắng mưa
Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây… - Trời cao biển rộng đất dày
Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi. * * * Ca dao, ngạn ngữ xưa phản ánh đủ các mặt của xã hội, từ phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, nghề nghiệp, tính cách con người, đến đấu tranh các thói xấu, tệ nạn đương thời, giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có thêm dữ liệu. Qua bài ca dao “Vui nhất là chợ Đồng Xuân” ta thấy cảnh nhộn nhịp của cái chợ lớn nhất kinh thành. Nào là “Cổng chợ có chị hàng hoa/Có người đổi bạc chạy ra chạy vào/Lại thêm “sực tắc” bán rao…” cho đến “Có người bán lược bán gương/Có người bán cả hòm rương, tủ quầy/Có người bán dép, bán dày/Có người bán cả ghế mây để ngồi…” và thêm “Lại còn kẻ cắp như rươi/Hở cơ chốc lát, tiền ôi mất rồi”. Muốn biết 36 phố phường xưa phải tìm đến bài ca dao “Rủ nhau chơi khắp Long Thành” có liệt kê các tên phố cũ bắt đầu bằng chữ “Hàng”. Còn đọc bài ca dao dưới đây ta hiểu được các nghề thủ công của từng làng thuộc vùng đất phía nam huyện Thanh Trì: Làng Đam bán mắm tôm xanh Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng Đông Phù cắp thúng đi buôn Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng Tương Trúc thì giỏi buôn sừng Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang… Đất lề Kẻ Chợ còn là nơi lắm người “Khéo tay hay nghề” và những đặc sản quý hiếm: “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ Vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”, “Mực cầu Cậy, giấy làng Hồ”, “Sù, Gạ thì giỏi chăn tằm, làng La canh cửi, làng Đăm bơi thuyền”… và cá rô đầm sét, sâm cầm Hồ Tây, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì… Lại còn những làng hoa: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Tân… làm ngẩn ngơ các du khách đến thăm - trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên:
Hỏi người xách nước tưới hoa Có cho ai được vào ra chốn này Và ướm lời hò hẹn: Hỡi cô đội nón ba tầm Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang Phiên rằm chợ chính Yên Quang Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua… * * * Nhưng bên cạnh cái “phồn hoa đệ nhất kinh đô” ấy, ca dao đã không quên một thực tế của dân nghèo Hà Nội dưới thời Pháp thuộc: Văn minh đèn điện sáng lòe Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau. Ca dao không né tránh đấu tranh, sẵn sàng vạch mặt:: Ông quan ở huyện Thanh Trì Miếng mỡ thì lấy, miếng bì thì chê Cha đời lính Tẩy, lính Tây Hễ trông thấy gái giở ngay xì xồ… Đốc Hà áo gấm, áo hoa
Mẹ tôi váy đụp đã ba, bốn tầng… Cũng như phê phán hủ tục trong việc cưới: - Trèo lên cây gạo cao cao Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền. - Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ Thôi thôi tôi giã ơn cô Tiền cheo cũng nặng trăm vồ cũng đau! * * * Người Hà Nội thường tự hào với câu ca dao xưa: - Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Hoặc: - Chẳng thơm cũng thể hoa mai Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh. Trong kho tàng ca dao Hà Nội cũng còn bao nhiêu câu khác hình tượng hóa sự thanh lịch ấy: - Đất tốt trồng cây rườm rà Những người thanh lịch nói ra dịu dàng. - Người thanh nói tiếng cũng thanh
Chuông kêu, khẽ gõ bên thành cũng kêu. - Kim vàng ai nỡ uốn cong
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời. - Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe.
- Vàng thì thử lửa, thử than Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời… Từ “Người thanh” chuyển hóa thành “Người khôn” rồi “Người ngoan”, ca dao đã đặt định cho thanh lịch tương ứng và đồng nghĩa với khôn - ngoan rồi. Bên sự ca ngợi chung còn có ca ngợi riêng, ví như với cô gái làng hoa Ngọc Hà: Hoa thơm, thơm lạ thơm lung Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm. Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ: Mình từ làng kẹo mình ra Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng. Và cả đến gánh rau làng Láng: … Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ. Thanh lịch đã trở thành truyền thống của người Thăng Long - Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam. Nói đến thanh là nói đến sự thanh cao trong tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tâm hồn; là nói đến thanh nhã trong nói năng, hành động; là nói đến thanh đạm trong cuộc sống đời thường và thanh liêm với của cải xã hội. Còn lịch, phải chăng là đề cập đến sự lịch lãm - xem nhiều, lịch duyệt - hiểu rộng, lịch thiệp trong giao tiếp và trong ứng xử. Nếu như ở vế thanh, con người phải học tập, rèn luyện tu dưỡng mới có thì ở vế lịch lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đúc kết nên. Phải có cả thanh và lịch mới đầy đủ, trọn vẹn. Trong thực tế, ta đã từng gặp người thanh mà không lịch, hoặc ngược lại. Thăng Long - Hà Nội là chốn hội tụ tinh hoa đất nước, trong đó có tinh hoa phẩm chất nhân cách và lối sống. Không chỉ hội tụ, mảnh đất trái tim tổ quốc này còn sàng lọc, kết tinh hương hoa trăm miền đề tạo nên bản sắc thanh lịch tiêu biểu cho mình, cho dân tộc mình, để rồi lại tỏa sáng ra trăm miền đất nước. Thanh lịch không phải là thứ trừu tượng, nó được thể hiện rõ rệt trên nhiều mặt của cuộc sống, trong nhiều lĩnh vực: ăn nói, ăn mặc, ăn học, ăn làm, ăn ở, ăn uống, cho đến ăn chơi trong lối sống và trong các phong tục, tập quán khác. Nó cũng không phải là thứ bất biến mà có thay đổi điều chỉnh, hoàn thiện, bổ sung, tước bỏ qua từng thời đại lịch sử, qua mỗi chế độ xã hội, để thích ứng với cuộc sống và phần nào phù hợp với luật pháp đương thời. *** Những câu ca dao - ngạn ngữ nói về cổ tích, truyền thuyết Hà Nội nếu không dựng lại hình tượng của những nhân vật anh hùng chống giặc cứu dân thì cũng là phản ánh công cuộc xây dựng đất nước, thể hiện ý chí bất khuất, lòng yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa của nhân dân ta: - Truyện Ông Gióng lên ba đã xin vua đúc ngựa sắt, roi sắt diệt giặc Ân, lập xong chiến công kỳ vĩ đã không màng danh lợi, phi ngựa sắt về trời. - Truyện đức thánh Chèm - người dũng sĩ khổng lồ đã vang danh ngoài biên ải nước láng giềng, giàu sang phú quý không níu được chân, vẫn trở về nằm xuống ở mảnh đất quê hương. - Truyện An Dương Vương xây thành ốc được thần tiên giúp đỡ. - Truyện ông Không Lộ dùng phép màu thu đồng đen của nước phương Bắc đem về đúc chuông, chuông gióng lên Trâu Vàng từ bên đó lồng sang giẫm nát một vùng thành Hồ Tây, rồi chạy về phía Đông Nam, dấu chân vạch nên sông Kim Ngưu bây giờ. Thực và ảo đan xen, tạo màn sương bao phủ lên cảnh vật, làm cho không gian Thăng Long - Hà Nội thêm diệu huyền đậm đà chất tâm linh cổ kính. Qua ca dao cổ Hà Nội ta càng thêm yêu mảnh đất nghìn năm văn hiến. Mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên cùng đất nước và Hà Nội cũng lớn lên cùng với dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường. Ca dao tục ngữ
School@net
|